- Đảo: Hoàng Sa, Đá Bắc, Hữu Nhật, Đá Lồi, Bạch Quy, Tri Tôn, Cây, Bắc, Giữa, Nam, Phú Lâm, Linh Côn, Quang Hòa, Cồn Bông Bay, Cồn Quan Sát, Cồn Cát Tây, Đá Chim Yến, Đá Tháp.
- Đảo: Hoàng Sa, Đá Bắc, Hữu Nhật, Đá Lồi, Bạch Quy, Tri Tôn, Cây, Bắc, Giữa, Nam, Phú Lâm, Linh Côn, Quang Hòa, Cồn Bông Bay, Cồn Quan Sát, Cồn Cát Tây, Đá Chim Yến, Đá Tháp.
Hoàng Sa là quần đảo nằm trong khu vực biển khoảng từ 15o15’ đến 17o15’ vĩ độ Bắc, 111o đến 113o kinh độ Đông, cách đảo Lý Sơn của tỉnh Quảng Ngãi khoảng 120 hải lý.
Quần đảo Hoàng Sa gồm hơn 13 đảo, đá, cồn san hô, đá ngầm cùng bãi cạn được chia làm hai nhóm (nhóm An Vĩnh nằm ở phía Đông, nhóm Lưỡi Liềm nằm ở phía Tây). Diện tích toàn bộ phần đất nổi của quần đảo Hoàng Sa khoảng 10km2, trong tất cả các đảo, đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm, diện tích 1,5km2.
Trường Sa là quần đảo nằm trong khu vực biển khoảng từ 6o50’ đến đến 12o vĩ độ Bắc, 111o30’ đến 117o20’ kinh độ Đông, cách TP Cam Ranh (tỉnh Khánh Hòa) khoảng 248 hải lý, cách huyện đảo Phú Quý của tỉnh Bình Thuận khoảng 203 hải lý.
Quần đảo Trường Sa gồm hơn 100 hòn lớn đảo, đá, cồn, san hô và bãi cát. Các đảo quan trọng thuộc quần đảo phải kể đến đảo Trường Sa, Nam Yết, An Bang, Ba Bình, Loại Ta, Song Tử Tây, Thị Tứ, Tử Đông… Diện tích toàn bộ phần đất nổi của quần đảo Trường Sa là khoảng 3km2, đảo Ba Bình là đảo lớn nhất, rộng khoảng 0,5km2.
Việt Nam có hơn 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ khác nhau và hai quần đảo nằm ngoài khơi Biển Ðông là Hoàng Sa và Trường Sa. Nước ta có đầy đủ cơ sở pháp lý cũng như bằng chứng lịch sử khẳng định rõ ràng Trường Sa Hoàng Sa là của Việt Nam từ lâu, ít nhất là từ thế kỷ 17.
Từ khoảng nửa đầu thế kỷ 17, Chúa Nguyễn đã tổ chức lấy người từ xã An Vĩnh của huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi ra quần đảo Hoàng Sa còn gọi là “đội Hoàng Sa” để thu lượm hàng hóa trên biển, đánh bắt hải sản; đo vẽ sơ đồ, trồng cây cũng như dựng mốc trên quần đảo.
Cho đến thế kỷ 19, nhà Nguyễn đã tổ chức thêm “đội Bắc Hải”, lấy người thôn Tứ Chính và người xã Cảnh Dương, phủ Bình Thuận để tiến ra quần đảo Trường Sa Hoàng Sa Việt Nam thực hiện hành động xác nhận chủ quyền tại đây.
Rất nhiều chứng cứ, tư liệu chứng tỏ ngay từ thế kỷ 17 đất nước ta đã thực hiện chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi nơi này còn là lãnh thổ vô chủ. Việt Nam là quốc gia duy nhất thực hiện chủ quyền với hai quần đảo một cách liên tục, hòa bình, không gặp phải bất cứ sự phản đối của quốc gia nào.
Các nguồn tư liệu lịch sử khẳng định Trường Sa Hoàng Sa là của Việt Nam vô cùng phong phú, đa dạng. Điển hình như Đại Nam thực lục - bộ sử sách lớn nhất của triều Nguyễn ghi chép rất rõ nét về các hoạt động trong việc quản lý, thực thi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Bên cạnh đó, các Châu bản triều Nguyễn cũng là các văn bản hành chính chính thức có dấu son của vua nhà Nguyễn (1802-1945) như một bằng chứng không thể chối cãi, khẳng Nhà nước quân chủ Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động xác lập, thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo này.
Nhiều bản đồ của phương Tây trong suốt thế kỷ 16 đến thế kỷ 19 đều có hình vẽ, ghi chú vị trí của Hoàng Sa, Trường Sa thuộc vùng biển Việt Nam, công nhận hai quần đảo này là một phần thuộc lãnh thổ Việt Nam.
Trong thời kỳ Thực dân Pháp đặt ách cai trị Đông Dương vào thế kỷ 19, Pháp đại diện cho triều Nguyễn tiếp tục quản lý hai quần đảo. Theo Hiệp ước Patenôtre năm 1884, với tư cách đại diện cho Việt Nam về đối ngoại, từ năm 1925 đến năm 1927, Pháp tổ chức điều tra thổ nhưỡng, khí hậu, nghiên cứu mỏ và duy trì tuần tra trên Hoàng Sa. Các năm 1930-1933, chính quyền Pháp đưa quân đội đóng giữ ở quần đảo Trường Sa.
Đến năm 1933, Pháp sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa, năm 1938 thì thành lập đơn vị hành chính ở Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên. Cũng khoảng thời gian này, Pháp đặt cột mốc, xây dựng ngọn hải đăng cùng các trạm khí tượng, vô tuyến điện trên Hoàng Sa, Trường Sa.
Ngày 14/10/1950, Pháp chính thức trao việc quản lý quần đảo Hoàng Sa cho chính phủ Bảo Ðại. Năm 1951, đại diện của chính phủ Bảo Ðại do Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Trần Văn Hữu làm trưởng đoàn đã tham gia Hội nghị San Francisco, trước đại diện của 51 quốc gia (có Trung Quốc). Tại hội nghị, Thủ tướng Trần Văn Hữu khẳng định một lần nữa chủ quyền quần đảo Trường Sa Hoàng Sa Việt Nam.
Sau khi giải phóng miền Nam, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, bằng nhiều hoạt động như quyết định thành lập đơn vị hành chính, đặc biệt năm 1982 Việt Nam đã thành lập huyện Trường Sa và huyện Hoàng Sa, mà nay huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa; huyện Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng. Trong huyện Trường Sa còn có các đơn vị nhỏ hơn, như thị trấn Trường Sa, gồm đảo Trường Sa lớn và phụ cận; xã Song Tử Tây; xã Sinh Tồn…
Các đảo trên sông Naf (Bangladesh, Myanmar) · Bãi Macclesfield (CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc) · Hoàng Sa (CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc, Việt Nam) · Quần đảo Đông Sa (CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc) · Sabah (Malaysia, Philippines) · Bãi cạn Scarborough (Philippines, CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc) · Trường Sa (Brunei, Malaysia, Philippines, CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc, Việt Nam)
Từ 1956 - 1975, quần đảo Trường Sa thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa sau khi tiếp thu từ Pháp quyền kiểm soát quần đảo Trường Sa. Năm 1963, Hải quân Việt Nam Cộng hòa đưa tàu ra dựng bia ở một số đảo, nhưng sau đó rút đi và không đồn trú lâu dài.
Năm 1970 Philippines đã tổ chức chiếm giữ đảo Song Tử Đông, đảo Thị Tứ, đảo Loại Ta và 4 đảo nữa. Theo như Đại tá về hưu hải quân Philippines Domingo Tucay Jr kể lại thì các đảo, bãi khi đó hoàn toàn hoang vắng, Philippines chiếm đóng dễ dàng. Chỉ khi tới đảo Song Tử Tây, họ mới thấy quân Việt Nam Cộng hòa đóng ở đây. Quân Philippines báo về sở chỉ huy, được chỉ thị cứ để mặc quân Việt Nam Cộng hòa. Lính Việt Nam Cộng hòa ở đảo Song Tử Tây cũng để yên để cho quân Philippines hành động. Sau chiến dịch, Philippines chiếm được 6 đảo nổi và bãi đá mà không cần phải nổ súng, trong đó Thị Tứ là đảo lớn thứ nhì, Bến Lạc (Đảo Dừa) là đảo lớn thứ ba, Song Tử Đông là đảo lớn thứ năm ở quần đảo Trường Sa. Philippines giữ các đảo và bãi này từ đó đến nay.
Sau vụ chiếm đóng, chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng không hề lên tiếng phản đối hoặc có động thái quân sự gì để đáp trả vụ chiếm đóng đó. Theo như lời Tucay kể lại, nhiều tháng sau khi Philippines chiếm đóng 7 đảo ở quần đảo Trường Sa, các nước khác mới biết vụ việc này[154][155].
Năm 1956, Đài Loan điều tàu đến đảo Ba Bình khi đó thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã không có hành động gì để phản đối. Nhân dịp lễ Song Thập 10/10 của Trung Hoa Dân Quốc (tức Đài Loan), Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh cho quân rút khỏi đảo Ba Bình là đảo lớn nhất tại quần đảo, Đài Loan giành quyền kiểm soát đảo mà không cần phải nổ súng.[cần dẫn nguồn]
Thời điểm quân đội Đài Loan thực sự tái chiếm đảo Ba Bình chưa rõ ràng, bởi có rất nhiều thông tin khác nhau về thời điểm Đài Loan điều tàu đến đảo Ba Bình vào năm 1956 (ngày 20 tháng 5, tháng 7, tháng 9 hoặc tháng 10[156]) và có nguồn tài liệu cho rằng từ năm 1971 thì Đài Loan mới thực sự đồn trú lâu dài trên đảo.[157][Ghi chú 15]
Ngày nay, đảo Ba Bình được Đài Loan biến thành một "pháo đài" với nhiều công sự phòng thủ kiên cố và có một đường băng cho phép máy bay vận tải C-130 Hercules lên xuống.[cần dẫn nguồn]