Nguyễn Nhật Ánh sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại tỉnh Quảng Nam. Ông được coi là một trong những nhà văn thành công nhất viết sách cho tuổi thơ, tuồi mới lớn với hơn 100 tác phẩm các thể loại.
Nguyễn Nhật Ánh sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại tỉnh Quảng Nam. Ông được coi là một trong những nhà văn thành công nhất viết sách cho tuổi thơ, tuồi mới lớn với hơn 100 tác phẩm các thể loại.
Gần như các nhân vật nhà văn Nguyễn Nhật Ánh viết về đều ôm một giấc mộng tuổi trẻ không thành với ai đó. Chàng trai trong “Đi Qua Hoa Cúc” trót thích một người hơn mình rất nhiều tuổi rồi phải ngậm ngùi chứng kiến người ấy ra đi khỏi cuộc đời mình. Ngạn yêu Hà Lan từ lúc anh còn chưa biết tình yêu là gì đến khi gần tứ tuần, và đã làm mọi thứ để giúp người mình thương được vui. Cậu bé cấp Ba trong "Hạ Đỏ" phải nước mắt ngắn dài chạy qua một cánh đồng rộng đầy ký ức để trốn khỏi người cậu thương, người qua mùa hè sẽ đi cưới chồng.
Văn học là một thế giới tưởng tượng vô tận, nơi mỗi độc giả có thể tự do vẽ nên những hình ảnh riêng. Điện ảnh, ngược lại, là một ngôn ngữ trực quan, cụ thể. Chính sự khác biệt này tạo nên một thử thách lớn cho các nhà làm phim khi chuyển thể tác phẩm văn học. Làm sao để hình ảnh hóa những câu chữ bay bổng mà vẫn giữ được cái hồn của nguyên tác là một bài toán khó.
Nguyễn Nhật Ánh, cái tên gắn liền với tuổi thơ của nhiều thế hệ 7x, 8x, là một "cây bút của tuổi thơ" đích thực. Với bề dày các tác phẩm văn học lấy đề tài học đường, tái hiện quãng trời tươi đẹp thời hoa niên mà chính tác giả từng thừa nhận rằng vì bản thân rời quê hương, xa tuổi thơ từ sớm mà luôn đau đáu nghĩ về nó. Có lẽ vì thế, các tác phẩm của ông, dù dành cho lứa tuổi thiếu niên, hay thậm chí là thanh niên, dù trong trẻo và hồn nhiên nhưng luôn đau đáu một nỗi niềm, sự u hoài cổ điển, và trên hết và tôn thờ cảm xúc thanh tân.
Lựa chọn một truyện dài ra đời vào năm 2016, dù với bối cảnh đồng quê, nhưng giọng văn giản dị, gần gũi, gọn gàng của Nguyễn Nhật Ánh vẫn đủ sức chinh phục, khiến độc giả sụt sùi vì xúc cảm tinh khôi của các nhân vật trẻ đi tìm tình yêu đầu đời. Cả "Mắt biếc" và "Ngày xưa có một chuyện tình" đều là những bản tình ca về tuổi trẻ, nhưng mỗi tác phẩm lại mang một sắc thái riêng. Nếu "Mắt biếc" là một bản tình ca buồn, khắc họa những nỗi niềm tiếc nuối, thì "Ngày xưa có một chuyện tình" lại là một bản tình ca ngọt ngào, ca ngợi vẻ đẹp của tình yêu chân thành.
Ở đó, là sự hiện hữu đẹp đẽ của những người trẻ, yêu một cách yêu rất khác so với thời đại viễn thông bây giờ: Vinh, Miền và Phúc... cùng lớn lên trong môi trường trong lành của thôn quê, sự hồn hậu ăn sâu vào lương tri và khiến họ không thể làm gì sai trái để cướp đi tình yêu riêng mình. Tình yêu của Vinh, Miền và Phúc là một minh chứng cho thấy tình yêu đích thực không cần những lời hoa mỹ, không cần những hành động phô trương, mà chỉ cần sự chân thành và tin tưởng.
"Tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh nói riêng là kho tàng quý giá cho nhà làm phim. Việc chuyển thể các tác phẩm này có lợi thế về thương hiệu, cốt truyện, kịch bản nhưng cũng có nhiều thách thức, khó khăn cần vượt qua. Một tác phẩm hay, thuyết phục được số đông thì sẽ thành công về doanh thu", nhà biên kịch Đông Hoa nhận định.
Truyện dài "Ngày xưa có một chuyện tình" của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh được Trịnh Đình Lê Minh chuyển thể màn ảnh rộng. Nội dung tác phẩm kể về 2 chàng trai tên Phúc, Vinh và cô gái tên Miền. Họ bên nhau từ thuở ấu thơ cho đến khi trưởng thành, phải đối mặt với những thử thách của số phận. Họ bắt đầu bằng tình bạn rồi dần dần chớm nở tình đầu, bỡ ngỡ bước vào đời, va vấp và vượt qua. Câu chuyện nhẹ nhàng, lãng mạn nhưng thấm đẫm suy nghĩ về tình yêu, hành trình trưởng thành từng một thời chinh phục độc giả.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh từng chia sẻ khi biết Trịnh Đình Lê Minh đưa tác phẩm của mình lên màn ảnh rộng: "Tôi biết cũng nhân vật tiểu thuyết đó, một trăm người đọc sẽ có cho mình một trăm hình ảnh khác nhau tùy theo tính cách và trải nghiệm của từng người. Đạo diễn cũng thế thôi! Trịnh Đình Lê Minh sẽ hình dung ra Vinh, Phúc, Miền theo sự cảm nhận, óc tưởng tượng, theo cá tính và thiên hướng sáng tạo của anh ấy. Với tư cách một nhà văn, tôi chỉ mong từ nguyên liệu văn học, đạo diễn sẽ sáng tạo nên một bộ phim thành công, đặc biệt là chạm vào cảm xúc của người xem, vậy là tốt rồi!".
Ông CAO ĐÌNH ([email protected]) hỏi như trên.
ANH PHÓ trả lời: Thưa ông Cao Đình,
Đúng là tôi có nói triều đình Huế của nhà Nguyễn gồm có sáu bộ (Lục bộ), giống như mô hình kiểu mẫu của các nhà nước phong kiến Trung Quốc. Còn việc ông nêu lên cũng có phần đúng vì triều đình Huế giai đoạn cuối nhà Nguyễn (thời vua Bảo Đại về nước chấp chính) đã có phần cải tiến, không còn sáu bộ như cũ nữa, tên các bộ cũng có đổi khác. Việc ông nêu các bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh trước Cách mạng tháng Tám 1945 thì lại sau nữa, thuộc thời kỳ Nhật xâm chiếm Đông Dương, thuộc về nội các Trần Trọng Kim. Lúc này cũng còn vua Bảo Đại đứng đầu, triều đình vẫn đặt ở Huế.
Như tôi nói đó, sau khi được đào tạo ở Pháp về, vua Bảo Đại có chủ trương cải cách bộ máy triều đình về nhiều phương diện, trong đó có việc thay đổi cơ cấu và tên các bộ. Cụ thể, từ năm 1908, dưới thời vua Duy Tân đã đặt thêm một bộ mới tên là Bộ Học do Cao Xuân Dục đứng đầu (chức vụ gọi là Thượng thư); đến năm 1932 vua Bảo Đại cải tổ Bộ Học, đổi tên lại là Bộ Quốc gia giáo dục. Lúc đó, triều đình Huế không còn Bộ Binh nên thành ra vẫn là sáu bộ; sau đó chỉ còn năm bộ vì bớt Bộ Binh.
Năm bộ đó là: Bộ Lại (Ngô Đình Diệm làm Thượng thư), Bộ Quốc gia giáo dục (Thượng thư: Phạm Quỳnh), Bộ Tài chính và Cứu tế xã hội (Thượng thư: Hồ Đắc Khải), Bộ Tư pháp (Thượng thư: Bùi Bằng Đoàn), Bộ Công chính, Mỹ nghệ và Lễ tân (Thượng thư: Thái Văn Toản). Rồi từ năm 1939, triều đình Huế lại có bảy bộ là: 1. Bộ Lại; 2. Bộ Quốc gia giáo dục; 3. Bộ Tài chính; 4. Bộ Tư pháp; 5. Bộ Lễ tân; 6. Bộ Công chính; 7. Bộ Kinh tế nông thôn, Thủ công nghiệp và Cứu tế xã hội.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9-3-1945, triều đình Huế được lập lại cũng vua Bảo Đại đứng đầu. Nội các Trần Trọng Kim ra mắt ngày 8-5-1945 với thành phần gồm 11 bộ, tên gọi và danh sách các bộ trưởng như sau:
1. TRẦN TRỌNG KIM, Giáo sư, Thủ tướng;
2. TRẦN ĐÌNH NAM, bác sĩ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ;
3. TRẦN VĂN CHƯƠNG, luật sư, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao;
4. TRỊNH ĐÌNH THẢO, luật sư, Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
5. HOÀNG XUÂN HÃN, Giáo sư, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Nghệ thuật;
6. VŨ VĂN HIỀN, luật sư, Bộ trưởng Bộ Tài chính;
7. PHAN ANH, luật sư, Bộ trưởng Bộ Thanh niên;
8. LƯU VĂN LANG, kỹ sư, Bộ trưởng Bộ Công chính;
9. VŨ NGỌC ANH, bác sĩ, Bộ trưởng Bộ Y tế và Cứu tế;
10. HỒ TÁ KHANH, bác sĩ, Bộ trưởng Bộ Kinh tế;
11. NGUYỄN HỮU TRÍ, bác sĩ, Bộ trưởng Bộ Tiếp tế.
(Theo Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, NXB Vĩnh Sơn, Sài Gòn, 1969, trang 52-53).
(Nguyệt san Pháp Luật TP.HCM số 174)